Bộ Lao Động Tiếng Hàn

Bộ Lao Động Tiếng Hàn

Bộ luật Lao động mới thay thế Bộ luật Lao động hiện hành sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Có nhiều điểm mới mà doanh nghiệp cần chú ý như: tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động, thêm ngày nghỉ Quốc khánh, ghi nhận hình thức hợp đồng lao động bằng điện tử, người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do,…

Bộ luật Lao động mới thay thế Bộ luật Lao động hiện hành sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Có nhiều điểm mới mà doanh nghiệp cần chú ý như: tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động, thêm ngày nghỉ Quốc khánh, ghi nhận hình thức hợp đồng lao động bằng điện tử, người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do,…

Khái niệm quan hệ lao động:

Theo nghĩa rộng, quan hệ lao động được hiểu là quan hệ giữa con người với con người hình thành trong lao động. Trong lao động, giữa con người với con người hình thành quan hệ sở hữu về tư liệu, phương tiện sản xuất, quan hệ tổ chức quản lí sản xuất và tổ chức quản lý lao động cũng như quan hệ phân phối sản phẩm sau quá trình lao động, hiểu theo cách hiểu này thì nhìn chung mỗi một phương thức sản xuất có một loại quan hệ lao động tiêu biểu thích ứng với nó.

Trong nền kinh tế thị trường ở thời hiện đại, các quan hệ liên quan đến việc sử dụng lao động rất phong phú như quan hệ lao động trong các hợp tác xã, trong hợp đồng khoán việc, trong các doanh nghiệp… Mỗi loại quan hệ lao động này lại có những đặc điểm, thuộc tính riêng. Dù muốn luật lao động điều chỉnh cũng không thể điều chỉnh tất cả các quan hệ lao động theo nghĩa rộng này được. Vì vậy, theo tinh thần của Luật lao động, chúng ta nên hiểu khái niệm quan hệ lao động theo nghĩa hẹp.

Theo nghĩa hẹp, quan hệ lao động là quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình lao động. Trong quan hệ này một bên tham gia với tư cách của người lao động, có nghĩa vụ phải thực hiện theo yêu cầu của bên kia và có quyền nhận thù lao từ công việc đó. Bên thứ hai là người sử dụng lao động, có quyền sử dụng sức lao động của người lao động và có nghĩa vụ phải trả thù lao về việc sử dụng sức lao động của người lao động.

Người sử dụng lao động là cá nhân hoặc tổ chức có vốn đầu tư, trang thiết bị kĩ thuật, nhu cầu sử dụng lao động, người lao động là cá nhân, không có vốn, dung sức lao động của mình để nuôi sống bản thân và gia đình.

Người lao động có nhu cầu, mong muốn bán được sức lao động với giá cao, có môi trường làm việc tốt để chuyển giao sức lao động cho người sử dụng lao động một cách thuận lợi. Còn đối tác của người lao động là người sử dụng lao động cũng” hướng tới” sức lao động, tức là sử dụng sức lao động của người lao động vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Như vậy, giữa người lao động và người sử dụng lao động hình thành nên quan hệ lao động mà mỗi bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau.

Các loại quan hệ lao động:

– Quan hệ làm công ăn lương giữa người lao động và người sử dụng lao động đó là Quan hệ lao động giữa người làm công ăn lương và người sử dụng lao động được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động. nếu Xét về bản chất đó là sự thỏa thuận giữa các bên theo quy định của pháp luật.và các  quan hệ làm công ăn lương giữa người lao động và người sử dụng lao động là đối tượng điều chỉnh chủ yếu nhất của luật lao động, bờ vì xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhu cầu của các bên tham gia quan hệ lao động.  và các Các quan hệ lao động khác theo quy định của pháp luật quy định

Trên đây là nội dung chúng tôi cung cấp về các vấn đề Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Bộ luật lao động 2019 và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.

Các công ty XKLĐ cho biết đó là yêu cầu của các đối tác tuyển dụng ở Nhật.

Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH, không chỉ thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc mà cả Đài Loan và những thị trường khác cũng đang xem xét hạn chế tuyển dụng lao động VN. Nguyên nhân do tình trạng vi phạm kỷ luật của lao động không giảm, tỉ lệ lao động bất hợp pháp ngày một tăng cao. Và hầu hết những hệ lụy đáng buồn này đều rơi vào các khu vực Bắc Trung bộ và phía Bắc.

Mới đây, một công ty XKLĐ đóng ở quận Tân Bình (TP.HCM) tiếp nhận hai đơn hàng tuyển dụng lao động của hai nghiệp đoàn có uy tín tại Nhật. Đơn hàng yêu cầu chỉ tuyển dụng lao động thuộc khu vực miền Nam hoặc một số tỉnh miền Trung từ Quảng Trị trở vào. Giám đốc công ty này cho biết khi ký kết đơn hàng, công ty có thuyết phục nên cho phép tuyển dụng rộng rãi trên cả nước nhưng đối tác nhất định không thay đổi điều khoản nói trên và cương quyết không tiếp nhận lao động ở các khu vực khác, nhất là tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. “Chúng tôi đành phải chấp nhận” - vị giám đốc này giãi bày.

Ông Vũ Minh Xuyên, tổng giám đốc Công ty XKLĐ Sovilaco, thừa nhận các nghiệp đoàn ở Nhật khuyến cáo và hạn chế khu vực tuyển dụng. Hầu hết đều yêu cầu tuyển dụng lao động từ Quảng Bình trở vào phía Nam. “Theo các nghiệp đoàn ở Nhật, tỉ lệ lao động bỏ trốn, vi phạm kỷ luật hầu hết đều thuộc những khu vực hạn chế nói trên. Không chỉ thị trường Nhật mà các thị trường khác cũng vậy” - ông Xuyên cho biết. Cũng theo ông Xuyên, trước đây lao động ở khu vực miền Bắc và miền Trung (nhất là các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình và Hà Tĩnh - NV) được tiếng cần cù, chịu khó và được đối tác cũng như các công ty XKLĐ VN ưa chuộng, nhưng vài năm trở lại đây tình hình lại tệ hơn.

Bà Dương Thị Thu Cúc, giám đốc Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ dầu khí Sài Gòn nhân lực, cho biết hiện nay chỉ những nghiệp đoàn mới làm việc hoặc chưa có kinh nghiệm thì tuyển dụng không hạn chế khu vực. Đối với các nghiệp đoàn có kinh nghiệm nhiều năm hợp tác với VN thì hầu như chỉ tuyển dụng lao động khu vực phía Nam.

Theo các công ty XKLĐ, việc hạn chế chưa nói đến những tác động xã hội khác nhưng trước mắt đã gây khó khăn trong việc tạo nguồn cho các công ty. Vì lao động ở khu vực phía Nam, nhất là các tỉnh miền Tây, ít khi chọn con đường XKLĐ để lập nghiệp.

Vì vậy, một số công ty đã lách bằng cách hợp tác với các công ty môi giới đưa lao động ở khu vực bị hạn chế vào phía Nam nhập khẩu rồi cung ứng cho đối tác. Ông H.V., giám đốc một công ty tạo nguồn ở Long An, tiết lộ nhiều công ty XKLĐ phía Bắc và TP.HCM yêu cầu tuyển lao động Hà Tĩnh, Nghệ An đưa vào nhập khẩu ở Tây Ninh. Một công ty khác ở TP.HCM thì tuyển hàng trăm lao động đưa vào nhập khẩu ở Bình Dương, Bình Phước...

Nói về những chiêu đối phó này, giám đốc một công ty XKLĐ có uy tín ở TP.HCM cho biết đó là những công ty làm ăn không có trách nhiệm. Thực tế hiện nay, người lao động ở khu vực miền Trung và miền Bắc thường chấp nhận đóng phí rất lớn (5.000-10.000 USD - NV) so với lao động khu vực khác để qua Nhật bằng mọi giá. “Ai cũng biết khi lao động chấp nhận bỏ số tiền lớn để đi XKLĐ thì trong đầu họ đã nuôi ý định bỏ trốn hoặc kiếm tiền nhằm bù lại chi phí. Còn các công ty tham lam thu tiền bằng mọi cách thì câu chuyện này vẫn tiếp diễn” - vị giám đốc này bức xúc.

Trước Nhật Bản, thị trường Hàn Quốc đã có những khuyến cáo mạnh mẽ và có thời gian ngưng kỳ kiểm tra tiếng Hàn cho lao động đi làm việc ở nước này vì tỉ lệ lao động bất hợp pháp quá cao. Thậm chí phía Hàn Quốc còn cảnh báo nếu Bộ LĐ-TB&XH VN không có những biện pháp mạnh mẽ để giảm tỉ lệ lao động bất hợp pháp thì sẽ đóng cửa thị trường.

Trước những động thái mạnh mẽ của Hàn Quốc, Bộ LĐ-TB&XH đã có công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố yêu cầu tạm thời ngưng tiếp nhận lao động tại 23 xã, phường có từ năm lao động trở lên bỏ trốn làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Trong 23 xã, phường này hầu hết rơi vào khu vực Bắc Trung bộ và các tỉnh phía Bắc. Trong đó bị cấm nhiều nhất là Nghệ An với bảy xã, phường; Hà Tĩnh có ba xã bị cấm; Quảng Bình bị cấm bốn xã; các địa phương khác như Hà Nội, Thái Bình, Phú Thọ, Bắc Giang và Hưng Yên cũng có từ 1 - 3 xã.

Ông Phạm Anh Thắng, cán bộ Ban quản lý lao động VN tại Hàn Quốc, cho biết với chương trình EPS (chương trình cấp phép cho lao động nước ngoài), Hàn Quốc luôn ưu ái lao động VN, tuyển dụng cao đứng đầu trong 15 nước XKLĐ qua Hàn Quốc, thu nhập không dưới 1.000 USD/tháng/người. “Nhưng lao động không ý thức được những ưu ái đó mà tỉ lệ bỏ trốn vẫn ngày càng cao. Điều này không chỉ làm giảm uy tín của lao động VN mà còn khiến phía bạn rất buồn” - ông Thắng nói.

Với những công ty XKLĐ làm ăn chân chính, những hệ lụy trên là điều đáng buồn và bắt nguồn từ số ít lao động không có ý thức đã làm ảnh hưởng đến cả một địa phương. Những hệ lụy này - như một giám đốc ví von - là tình trạng “kẻ ăn ốc người đổ vỏ”, hay nói một cách khác là “quýt làm cam chịu”.